Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

Phát hiện nấm linh chi quý hiếm ở Đà Lạt



Nhóm nghiên cứu của Sở Khoa học công nghệ Lâm Đồng chiều 15/9 phát hiện 3 cây nấm linh chi đỏ - loại lần đầu tiên tìm thấy ở Việt Nam - trên một cây phi lao cổ thụ gần cổng khách sạn Đà Lạt Palace.

Tiến sĩ Lê Xuân Thám, Phó giám đốc Sở Khoa học công nghệ Lâm Đồng cho biết, loài nấm linh chi đỏ mới phát hiện được ở Đà Lạt có tên khoa học là Gannoderma Cf. Pfeifferii. Loài này sinh trưởng ở các nước Châu Âu nhưng chưa có trong danh mục nấm tại Việt Nam. Nhóm nghiên cứu sau khi tìm thấy đã đặt ngay tên cho nấm linh chi đỏ Việt Nam là Linh chi DaLat Palace.

Nấm linh chi đỏ phát hiện trước cổng khách sạn 5 sao ở Đà Lạt. Ảnh: Quốc Dũng Hiện nhóm nghiên cứu chỉ phát hiện được 3 cây nấm Gannoderma Cf.Pfeifferii chưa trưởng thành trên cây phi lao gần cổng khách sạn Đà Lạt Palace. Đường kính cây lớn nhất mới trên 10 cm. Các nhà khoa học cho biết, loài nấm linh chi này khi phát triển đủ tuổi có thể quả dày, đường kính tai tối đa 50 cm, có hoạt chất cao. Ước tính độ khoảng 20 ngày nữa nấm linh chi đỏ Đà Lạt sẽ trưởng thành.

Giống nấm linh chi đỏ này thường thích hợp mọc trên những loại cây có khả năng cố định đạm cao. Sở khoa học công nghệ Lâm Đồng đang tiến hành lấy mẫu tách phân lập để lấy giống thuần khiết bảo vệ nguồn gen.

Nấm Linh chi được xem là loài dược liệu quý hiếm bồi bổ sức khỏe, thuộc loại thuốc bổ thượng phẩm của Trung y.

Phát hiện cây Giảo cổ lam - Một dược liệu quý hiếm ở Việt Nam



Giảo cổ lam (Jiaogulan), là một loại dược liệu có tên khoa học là Gynostemma pentaphyllum (Thunb). Makino Cucurbitaceae. Còn có tên là Cam Trà vạn, Thất diệp đởm, cây trường sinh, cây cỏ Thần kỳ, Sâm phương nam, Ngũ diệp sâm.

Người Nhật gọi là Phúc âm thảo, hay Amachazuzu. Đây là một dược liệu đầu vị quý được ghi trong sách cổ “Nông chính toàn thư hạch chú” quyển hạ năm 1639. Từ xa xưa được sử dụng cho vua chúa để tăng sức khoẻ, kéo dài tuổi thọ và làm đẹp. Giảo cổ lam bắt đầu được nghiên cứu từ năm 1976 ở Nhật Bản, việc phát hiện ra cây là do tình cờ khi nghiên cứu một bộ lạc sống trên núi cao có tuổi thọ bình quân 98 tuổi mà nguyên nhân là do người dân nơi đó thường xuyên uống cây này. Các nghiên cứu về Giảo cổ lam (GCL) hiện nay được thực hiện nhiều ở Trung Quốc, Mỹ, Đức, Italia. Có thể liệt kê một số nghiên cứu điển hình như:

- GS. Tan H., Liu Z.L.,Liu MJ. Chứng minh GCL có tác dụng kìm hãm sự tích tụ tiểu cầu, làm tan cục máu đông, chống huyết khối, tăng cường lưu thông máu lên não.

- Lin, J.M., và cộng sự chứng minh GCL có tác dụng chống viêm gan, chứng cao huyết áp và chống ung thư. Có tác dụng chống viêm mạnh hơn Indomethacin.

- Wang C. Và cộng sự chứng minh GCL kìm hãm sự phát triển của khối u mạnh.

Năm 1997 GS. TS. NGND Phạm Thanh Kỳ (nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Dược Hà Nội, chủ nhiệm bộ môn dược liệu) trong một lần đi công tác tại Lào Cai đã phát hiện thấy cây Giảo cổ lam trên núi PhanXipang. Sau khi được GS. NGND Vũ Văn Chuyên xác định tên khoa học chính xác là Gynostemma Pentaphyllum, GS Kỳ đã tra cứu tài liệu và biết rằng đây là một loại dược liệu quí đã đăng ký đề tài nghiên cứu cấp nhà nước và được cấp ngân sách 120 triệu đồng (đề tài có mã số: KC.10.07.03.03).

Kết quả nghiên cứu cho thấy Giảo cổ lam có chứa hơn 100 loại Saponin cấu trúc triterpen kiểu damaran, trong đó có nhiều loại có cấu trúc rất giống với Saponin có trong Nhân sâm và Tam thất (vì vậy có tên Ngũ diệp sâm, Sâm nam). Giảo cổ lam còn chứa nhiều Flavonoid, chất có tác dụng sinh học cao và có tác dụng chống lão hóa mạnh. Ngoài ra còn có các Acid amin tan trong nước, nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng như Zn, Fe, Se. Đã thử độc tính cấp, trường diễn, bán trường diễn và xác định cây không có độc. Các thử nghiệm Giảo cổ lam trên chuột và thỏ cho kết quả như sau:

+ Tác dụng giảm mỡ máu (Triglycerid và Cholesterorl): GCL ức chế tăng Cholesterorl 71% theo phương pháp ngoại sinh và 82,08% theo phương pháp nội sinh.

+ Tác dụng tăng lực (nghiệm pháp chuột bơi): GCL làm tăng lực 214,2%.

+ Tác dụng bảo vệ tế bào gan: đã chứng minh GCL bảo vệ tế bào gan mạnh trước sự tấn công của các chất gây độc (CCL4) và làm tăng tiết mật.

+ Tác dụng tăng đáp ứng miễn dịch: GCL làm tăng đáp ứng miễn dịch tế bào khi chiếu xạ hoặc gây độc tế bào bằng hóa chất Cyclophosphamid.

+ Tác dụng hạ đường máu: GCL có tác dụng hạ đường huyết trên chuột nhắt trắng. Trên chuột đái tháo đường di truyền, liều uống 500 mg/kg làm hạ đường huyết 22%, liều 1000mg/kg làm hạ tối đa tới 36%. Trong nghiệm pháp dung nạp glucose ở chuột nhắt trắng, liều uống 1000mg/kg đã ức chế sự tăng đường huyết tới 55% (sau 30 phút) và 63% (sau 60 phút) so với nhóm chứng. GCL gây hạ đường huyết yếu trên chuột bình thường nhưng lại có tác dụng khá mạnh trên chuột có đường huyết cao. Như vậy, ngoài cơ chế làm tăng tiết insulin GCL có thể cũng làm tăng nhạy cảm của mô đích với insulin.

+ Phòng ung thư: tỷ lệ ức chế khối u từ 20-80%, phòng ngừa u hóa tế bào bình thường.

+ Chống suy thoái tế bào: cho dịch chiết GCL vào môi trường vào nuôi cấy tế bào da người, số lần tái sinh tăng từ 20 lên 27 lần, kéo dài tuổi thọ tế bào 22,7%.

Đã tiến hành thử nghiệm lâm sàng tại các bệnh viện Trung ương cho thấy, Giảo cổ lam làm hạ mỡ máu, nhất là đối với cholesterol toàn phần điều trị cho kết quả tốt, ngăn ngừa sơ vữa mạch máu, chống huyết khối vờ bình ổn huyết áp, phòng ngừa các biến chứng tim mạch, não. Giảo cổ lam làm giảm căng thẳng mệt mỏi, giúp tăng lực mạnh, tăng khả năng làm việc, tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. Cải thiện các triệu chứng cơ năng cho bệnh nhân như giúp ăn ngủ tốt, hạn chế số lần tiểu đêm, nhuận gan, lợi mật, giúp tiêu hóa tốt, hết hoa mắt, chóng mặt, đau đầu do thiếu máu não.

Chính vì tác dụng kỳ diệu cho sức khỏe như vậy nên Giảo cổ lam còn được gọi là cây trường thọ, cây cỏ thần kỳ và được bán ở Trung Quốc và Nhật Bản với giá rất đắt (khoảng một đến bốn triệu đồng 1kg). Việc tìm thấy Giảo cổ lam ở Phanxipang Việt Nam minh chứng cho tiềm năng phong phú và đa dạng của dược liệu nước nhà và mở ra một triển vọng to lớn về xuất khẩu dược liệu (cây Giảo cổ lam mỗi năm đem về ngoại tệ lớn cho Trung Quốc và rất được thị trường Mỹ và Châu Âu ưa chuộng).

Giảo cổ lam hiện nay đã có mặt trên thị trường Việt Nam dưới dạng trà túi lọc và dạng viên do tập đoàn Tuệ Linh sản xuất dưới sự cho phép và giám sát của GS.TS Phạm Thanh Kỳ, chủ nhiệm để tài cấp nhà nước về cây GCL. Hy vọng dược liệu này sẽ đem lại nhiều sức khỏe cho mọi người.

Những loại ngọc phong thủy quý hiếm








Trong “Đông Châu Liệt Quốc” có nói : “Nhà Chu có ngọc Chỉ Ách, nước Tống có ngọc Kết Lục, nước Sở có ngọc Biện Hòa, nước Lương có ngọc Huyền Lê.” Người Hoa cho rằng ngọc là vật quý, hội đủ 5 đức tính cơ bản của con người gồm: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, do đó ngọc rất được tôn sùng.
Ngày xưa, chỉ những nhà quyền quý mới có thể sở hữu ngọc, vua chúa dùng nó làm biểu tượng cho quyền lực, địa vị tối cao (như ngọc tỷ – con dấu riêng của hoàng đế dùng đóng dưới các văn kiện quan trọng). Có thời, dân thường không được dùng bạch ngọc làm của riêng, bởi nó chỉ được dùng làm ngọc tỷ, ngọc bội cho hoàng thất mà thôi.
Các bạn có biết???
Khoảng 300 năm trước công nguyên, ở nước Sở, vào thời Lệ Vương, có Biện Hòa là 1 thường dân may mắn tìm được 1 hòn đá tảng, ông ta biết chắc bên trong là loại ngọc cực quý nên đi hiến cho vua để tỏ dạ trung thành. Lệ Vương nhìn thấy hòn đá thô thiển, có ý xem thường, bèn bảo 1 viên thái giám đập ra mài thử xem thật giả. Tên thái giám này sợ Biện Hòa có công dâng ngọc sẽ được sủng ái hơn mình nên bảo là đồ giả, khiến Biện Hòa bị chặt mất 1 chân.

Ít lâu sau, Lệ Vương băng hà, Vũ Vương kế vị. Biện Hòa lại xin vào dâng ngọc, viên quan được vua sai thử ngọc có tư thù với ông nên lại tâu là đồ giả, khiến Biện Hòa bị chặt nốt chân kia. Quá uất hận, Biện Hòa ôm tảng đá, lao đầu vào tường toan tự tử, Vũ Vương ngăn lại, cho người đập vỡ tảng đá ,đích thân xem xét phiến ngọc và nhận ra nó cực kỳ quý giá.
Nhà vua hối hận nhưng đã muộn, vì Biện Hòa đã tàn phế, máu của ông đã loang đỏ khắp sân triều. Từ đó, viên ngọc quý này được gọi là “Biện Hòa bích ngọc” hay “Hoà thị bích”-viên ngọc đẫm máu trong lịch sử Trung Hoa.
Thứ ngọc quý được nói đến ở trên vốn chỉ là 1 loại đá trắng trong nhân của đá tảng. Ngày nay người ta cắt thành từng miếng vuông rồi mài dũa công phu thành chiếc vòng trơn láng, sau đó nhuộm với 1 loại thuốc nhuộm cực mạnh trong lò áp suất khoảng 24h rồi vớt ra treo thành từng chùm phơi cho thật nguội, lưu ý là mọi quy trình đều thực hiện trong phòng kín.
Vì thế người thợ làm nghề này từ 5-10 năm là 2 lá phổi đã tổn thương hoàn toàn. Thế mà vẫn có hàng tỉ người Trung Quốc quyết tâm gìn giữ chiếc vòng truyền thống này .
Nói thế chắc các bạn ai cũng nghĩ đó là chiếc vòng Cẩm Thạch. Thế nhưng loại Cẩm Thạch này lại có xuất xứ từ Miến Điện (Mianma). Cẩm Thạch Miến Điện thì nó màu xanh và ánh sáng xuyên qua nhìn rất đẹp, đây mới được gọi là “Lục Ngọc hoàng gia”. Cẩm thạch có cái tên như vậy cũng vì thứ ngọc này ngày xưa được hoàng tộc thu mua hết rồi chạm trổ thành báu vật và được đặt tên riêng .
Đây là 1 cây cải bằng ngọc tuyệt đẹp đầy tinh tế của nghệ nhân Trung Quốc, biết dùng phần ngọc màu xanh để làm lá cải còn phần ngọc màu trắng làm thân cải, cái hay ở chỗ cả 2 phần ngọc xanh và trắng này đều cùng 1 khối ngọc.


Ắt hẳn các bạn đều nghe nhắc đến tên ngọc Phỉ Thuý vì loại ngọc này xuất hiện nhiều nhất trong những bộ phim cổ trang Trung Quốc. Thật vậy, đời Từ Hy thái hậu, loại ngọc này đã rất quý giá và có trị giá liên thành. Đây là 1 loại ngọc bích cự kì quý hiếm, ngọc có màu sắc trong suốt, thuần xanh lá mạ non.
Người xưa tương truyền nếu tạc xong 1 bức tượng hình chim bằng loại ngọc Phỉ Thúy này… thì đừng nên “điểm tinh” cho con chim (điểm tinh là dùng màu đen chấm vào tròng mắt con chim). Nếu điểm tinh thì con chim nầy trước sau nó cũng bay mất, cho dù chủ nhân cất giữ cách nào đi chăng nữa… nó thành loại chim đẹp như chim Phỉ Thúy rồi.
Ngọc bích có độ cứng rất cao nên người xưa dùng ngọc làm vũ khí như: mũi tên, dao găm… họ tin tưởng khi chết nên dùng ngọc làm áo quan. Triệu Đà dùng ngọc làm áo giáp, quan tài… ông ta dùng đến 2000 miếng ngọc loại cực tốt, xanh um… đính với dây vàng… làm áo quan vô cùng lộng lẫy…
Nhiều huyệt mộ xưa thời nhà Chu, người ta đào thấy nhiều mảnh ngọc dẹt y như cái dĩa cơm, nhưng lỗ khuyết ngay tâm, vì họ biết đó là biểu tượng thiêng. Trong tiểu thuyết Kim Dung cũng có nhắc đến 1 loại vũ khí được làm bằng ngọc, đó là Lục Ngọc trượng-trấn bang chi bảo của Cái Bang, chỉ có bang chủ mới được sở hữu, sử dụng và cứ thế, các tiền nhiệm bang chủ lại truyền cho đời sau.

Theo niềm tin của người Hoa, ngọc thạch có những tính năng siêu phàm: trị bệnh, giải độc, giúp trường sinh bất lão, giữ xác chết mãi mãi nguyên vẹn, mang lại phúc lành, yên lành…
Trong các ngôi mộ cổ được khai quật gần đây ở miền trung Trung Quốc, người ta tìm thấy rất nhiều ngọc thạch. 1 điều hết sức lạ ở những ngôi mộ đó là có rất nhiều ngọc thạch chôn theo, xác chết vẫn còn nguyên vẹn dù đã hơn 2.000 năm. Loại ngọc đó gọi là “ngọc chôn theo người chết” hay “ngọc dưới mồ”.
Chẳng hạn như trường hợp của hoàng tử Liêu Thân và vợ là Tôn Vãn thuộc triều Hán, đã được chôn gần 2 thiên niên kỷ. Khi khai quật, những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc bởi cả 2 xác chết vẫn còn nguyên vẹn, chẳng khác gì các xác ướp trong hầm mộ của người Ai Cập cổ đại. Các thi thể chẳng hề được tẩm ướp bất cứ thứ gì, nhưng bên cạnh có rất nhiều ngọc. Sau khi nghiên cứu kỹ, các nhà khai quật cho rằng, chính ngọc thạch đã giữ được sự nguyên vẹn của thi hài.
Những viên ngọc chôn 1 thời gian dài dưới mồ sau khi đào lên có sự biến đổi khác thường: bạch ngọc từ trong suốt trở nên đục hơn, từ bên trong ửng lên các vân màu hồng, giống như những sợi chỉ máu, cẩm thạch từ màu xanh lục biến thành sẫm hơn, ửng hồng như nhuộm với máu… riêng hồng ngọc, hoàng ngọc, lam ngọc… màu sắc cũng sẫm thêm nhưng khi đặt dưới ánh sáng mặt trời hay ánh sáng đèn, chúng rực lên 1 thứ ánh sáng lung linh kỳ dị, như từ 1 cõi u linh nào đó.
Người ta cho rằng, những viên ngọc đó đã thấm máu và tinh khí từ cơ thể người, hay đúng hơn là thấm hồn người chết. Do đó nó càng trở thành vô giá, cực kỳ linh thiêng.

Tương truyền, Từ Hy Thái hậu vẫn giữ được sự tươi trẻ, uy nghiêm khi sắp qua đời là nhờ có khả năng kỳ diệu từ ngọc, bà ta được 1 nhà sư Tây Tạng bí mật chỉ cho cách dùng ngọc để giúp làn da mãi tươi nhuận, dù già vẫn không có nếp nhăn bằng cách: dùng ngọc trai nấu nhừ, tán nhuyễn, pha với sữa của phụ nữ có con so rồi thoa lên mặt, lên da mỗi buổi sáng và tối. Và quả thực Từ Hy khi đã trên 60 vẫn có nhan sắc của 1 phụ nữ trẻ.
Không chỉ vậy, người ta còn cho rằng sự tươi trẻ đó 1 phần cũng nhờ 2 viên bạch ngọc thuộc loại quý hiếm nhất, có kích cỡ bằng quả trứng mà thái hậu luôn mang theo người. Bà tin rằng nếu mãi giữ 2 viên ngọc quý bên người thì sinh lực dồi dào và đẩy lùi được mọi bệnh tật.

Người Hoa đã biết dùng ngọc trên 7.000-8.000 năm nay rồi. Ngọc có nhiều màu sắc: đỏ, cam, vàng, lục, lam, trắng, đen, tím… nhưng người Hoa lại trọng màu xanh lá mạ nhất.
Người Hoa cho rằng Ngọc phát xuất từ núi Côn Luân là tốt nhất. Nhưng thật sự không bằng ngọc phát xuất từ Miến Điện, tại xứ Miến có vài mỏ Cẩm Thạch lộ thiên, đa số tại cực bắc xứ Miến. Vì thế các loại ngọc tốt nhất có màu xanh lá mạ chính hiệu đều xuất thân từ Miến Điện.
Dạ minh châu là 1 loại ngọc hết sức kỳ lạ và giá trị của nó cũng được đánh giá qua sự kỳ lạ đó, loại ngọc này thường có dạng viên sau khi được mài dũa 1 cách tinh tế, loại ngọc này cực kỳ quý hiếm, chỉ có hoàng tộc mới được sở hữu và thường được dùng làm cống phẩm. Nét đặc trưng ở loại ngọc này là 1 tính năng không thể nhầm lẫn với bất kỳ 1 loại ngọc nào khác. Dù ở bất kỳ ánh sáng nào, viên dạ minh châu đều có thể tỏa ra 1 ánh sáng trong và đặc biệt quyến rũ khi ở trong bóng tối.
Nguyên nhân dạ minh châu phát sáng là vì nó có chứa 1 tỉ lệ rất nhỏ hàm lượng các đồng vị phóng xạ [đa số là phốtpho(P)], các đồng vị phóng xạ này phân rã sinh ra các tia phóng xạ va đập vào các phân tử khác gây ra hiện tượng quang điện làm nó phát sáng. Tuy nhiên bạn có thể an tâm việc rằng vào 1 ngày đẹp trời nào đó, bỗng viên dạ minh châu của bạn tắt lịm, bởi vì chu kỳ bán rã của những chất phóng xạ này là rất lớn (hàng triệu năm).

Đã nói đến ngọc Trung Hoa thì không thể nào bỏ sót trân châu hay còn gọi là ngọc trai, ngọc trai sau khi được khai thác và mài dũa là 1 vật hình cầu, cứng, được 1 số loài động vật tạo ra, chủ yếu là loài thân mềm (nhuyễn thể) như con trai. Ngọc trai được sử dụng làm đồ trang sức và cũng được tán thành bột để dùng trong mỹ phẩm. Ngọc trai được đánh giá là 1 loại đá quý, được nuôi và thu hoạch để làm đồ trang sức.
Vì thế mà ngọc trai được chia làm 2 loại: ngọc trai nước mặn và nước ngọt, ngọc trai nước ngọt phần lớn là ngọc trai nuôi trong hồ, còn ngọc trai nước mặn được những con điệp, hàu bao sống ở các vịnh biển tạo ra. Thành phần chính của ngọc trai là xà cừ gồm canxi cacbonat và conchiolin do loài nhuyễn thể tiết ra.
Giá trị của ngọc trai được đánh giá qua độ lớn và ngọc trai càng tự nhiên thì càng quý. Từ xưa, người Trung Quốc đã biết sử dụng ngọc trai nguyên như 1 loại trang sức và khi tán nhuyễn ra có thể dùng làm dược phẩm hay mỹ phẩm.

Người Hoa ngày nay vẫn tin rằng ngọc thạch có nhiều khả năng kỳ lạ, huyền bí nên vẫn tôn sùng thứ bảo thạch đó và đem cái đam mê này truyền sang cho rất nhiều người trên thế giới.

Phát hiện cây quý hiếm nở hoa


Liên minh bảo tồn tự nhiên quốc tế (IUCN) ngày 20/1 cho biết các nhà khoa học đã phát hiện một loài cây nở hoa mới thuộc bộ Medinilla quý hiếm trên đảo Kadavu của Fiji.
Nữ phát ngôn viên Ewa Ewa Magiera của IUCN nói với AFP: "Mặc dù loài thực vật này được tìm thấy lần đầu tiên vào tháng 8/2010, song phải mất một khoảng thời gian dài để xác nhận nó".
Loài cây trên được phát hiện trong một đợt đánh giá tính đa dạng sinh học ở huyện Nakasaleka được tiến hành trong khuôn khổ chương trình Sáng kiến nguồn nước và tự nhiên (WANI) của IUCN.

Theo IUCN, hiện có khoảng 193 loài Medinilla đã được biết đến ở Madagascar, châu Phi, Nam Á và Fiji.
Chỉ có 11 loài được tìm thấy ở đảo quốc Thái Bình Dương này, trong số đó có Tagimoucia, loài hoa biểu tượng của Fiji.

cây thuốc quý hiếm


Tongkat ali còn gọi là cây Bá bệnh – là cây thuốc quý hiếm với khả năng trị bách bệnh, đã được các nhà khoa học Trường Đại học Dược Hà Nội tìm thấy tại Việt Nam từ năm 2006.
Theo kinh nghiệm dân gian, người ta dùng rễ cây bá bệnh, cây mật nhân (có vị đắng, tính mát) băm nhỏ đem tẩm rượu, sao vàng để trị bệnh. Mật nhân được dùng chữa nhiều thứ bệnh như: khí hư huyết kém (biểu hiện: người mỏi mệt, lười hoạt động, thiếu máu), ăn uống không tiêu, no hơi, đầy bụng, trong ngực có cục tích (tức ngực, nghẹn, khó thở), gân xương yếu mỏi, chân tay tê nhức, nôn mửa, tả lỵ, tứ thời cảm mạo (cảm ho thể phong hàn hay phong nhiệt cả 4 mùa trong năm), say rượu, đau bao tử, ợ hơi, ợ chua lâu năm, cao huyết áp, tẩy giun và nhiều bệnh khác. Vỏ thân mật nhân dùng làm thuốc bổ, chữa trị ăn uống không tiêu, phối hợp với rễ chữa đau lưng, nhức mỏi, đau bụng kinh của phụ nữ. Quả mật nhân thì dùng để chữa lỵ, tiêu chảy. Lá thì dùng nấu nước tắm trị ghẻ, lở ngứa. Cách sử dụng mật nhân chữa bệnh như sau: Nếu rễ hoặc vỏ thân thì phơi khô tẩm rượu sao vàng sắc uống, hoặc tán bột làm viên uống ngày 8-16g chia 3 lần sau khi ăn. Nếu ngâm rượu thì liều lượng như sau: 200g rễ mật nhân, 10 trái chuối khô (chuối sứ) nướng vàng, ngâm với 1 lít rượu loại ngon, ngâm khoảng 7 ngày là lấy ra dùng được, ngày dùng 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ (độ 30 ml). Lưu ý, phụ nữ đang mang thai thì không được dùng.
Bán rể,thân cây, cây giống và hạt cây bá bệnh với giá rẻ, miễn phí cho người khó khăn chữa bệnh, tặng một ít về dùng thử, giao hàng tận nơi tại tp.hcm. bình dương, đồng nai, giao hàng chuyển phát nhanh miễn phí trên cả nước, hàng tự gia đình đào về ở tại cao nguyên daklak có độ cao trên 1000 m nên chất lượng rất tốt, có hàm lượng Eurycoma Longifolia cao hơn rất nhiều so với vùng khác .uy tín, giá rẻ nhất.
cây giống 25.000 ngàn/ cây cao 20 đến 25 cm
rể cây tươi 100.000 đ/kg
Rể cây khô 250.000 đ/kg
- địa chỉ liên hệ 65/25 đường số 5, khu phố 2, phường linh xuân, quận thủ đức, TP. HCM .sdt 0985.324.028 ( anh thịnh )
- tại Daklak thôn điện biên 2 xã eakmut, huyện eakar, tỉnh daklak sdt 01.652.188.597 ( anh lân )
- tại hà nội: Nhà số 3, Ngách 5, Ngỏ 35, Đường Lê Đức Thọ, huyện Từ Liêm , TP.HÀ NỘI .sdt 01.663.582.585 ( nguyễn thị Bình )
thông tin và cách chế biến thuốc cây bá bệnh hẳy vào trang web này tham khảo thêm http://www.thaoduocquy.net
Cây bá bệnh là một loại cây quý hiếm với khả năng trị bách bệnh và rất co giá trị kinh tế, trong thời gian gần đây cây này được người dân khai thác rất nhiều và không có bảo vê nên trong thời gian gần thì cây này tong tự nhiên sẻ cạn kiệt , giá có thế tăng lên cả chục lần so với hiện tại, nếu không có bảo tồn sẻ có nguy cơ tiệt chủng , thế nên cây này được đưa vào trồng thì mang lại hiệu quả kinh tế rất cao trong những năm tới, chúng tôi tiến hành ươm bằng hạt và hom bằng nhánh cây bước đầu có hiệu quả, tỷ lệ ươm bằng hạt có thể lên đến 75%, chúng tôi ươm thành công và cung cấp cho các nhà vườn , hộ gia đình, các vườn cây cảnh, các trang trại trên cả nước , được hộ trợ kỷ thuật và hướng dẩn trồng cẩn thận, đảm bảo chất lượng và uy tính, nếu các bạn có nhu cầu và muốn phát triển cây bá bệnh này, làm đại lý phân phối cho chúng tôi, làm giàu cho bản thân và giúp mọi người cùng phát triển kinh tế, thì liên hệ với chúng tôi , chúng tôi giúp đỡ và hướng dẩn cho mọi người
địa chỉ liên hệ 65/25 đường số 5, khu phố 2, phường linh xuân, quận thủ đức, TP. HCM .sdt 0985.324.028 ( anh thịnh )
http://www.thaoduocquy.net
Cây mật nhân chũa bệnh gì ..., , Dịch vu 28 Tháng 3, 2012 - 08:30
Cây mật nhân chữa bệnh, rễ cây mật nhân chữa bệnh ...,
Mật nhân là một cây thuốc được sử dụng trong dân gian từ rất lâu, nó còn được gọi với những cái tên khác đó là: cây bá bệnh, hay cây bách bệnh. Từ lâu, người ta thường đi chặt cây mật nhân về làm thuốc. Cây mật nhân thường mọc hoang ở miền Trung và miền Đông Nam Bộ, cây có thể cao tới 7-8 mét.
Bộ phận dùng của cây gồm, lá, vỏ thân cây, quả và rễ. Theo Đông y, mật nhân có vị đắng, tính mát, quy (đi vào) kinh can và thận, có tác dụng bổ dưỡng cho người bị khí huyết hư, gân xương đau nhức, tê chân tay, rối loạn tiêu hóa (tiêu chảy hay kiết lỵ đều dùng được), phòng ngừa tứ thời cảm mạo. Ngoài ra, mật nhân còn chữa được chứng thống kinh (phụ nữ bị đau bụng lúc hành kinh), chứng ách nghịch ở ngực (đau tức ngực do khí ứ không thông). Bộ phận thường dùng là rễ hay vỏ thân cây, còn lá thường chỉ được dùng nấu nước tắm trị ghẻ chốc. Rễ của cây mật nhân đem về chặt nhỏ, phơi khô, sao vàng hạ thổ rồi đem ngâm rượu, mỗi lít ngâm khoảng 30-40 gam, ngâm trong 20 ngày là dùng được. Liều dùng mỗi ngày uống 20- 50ml rượu mật nhân.
Tùy theo nhu cầu điều trị, có thể ngâm riêng hay phối hợp với một số dược liệu khác nhằm giúp tăng hiệu quả điều trị.
Những người không uống đắng được, có thể ngâm chung mật nhân với nho khô, hay chuối khô nướng vàng để dùng cũng được.
Điều đáng lưu ý là, không được dùng mật nhân cho phụ nữ có thai.
Giá bán: 250.000 VND/ 1kg ( Loại khô đã cắt lát)
Liên hệ: Sản vật tây bắc Trần Lộc
ĐC: Xóm 2 - Thôn Hạ - Mễ Trì - Từ Liêm - Hà Nội
ĐT: 04.667.45149 - 0989.475636 - 01252.928989
Danh mục sản phẩm:
Rượu sâu chít, Cây mật gấu, Giảo cổ lam sapa, Chuối hột rừng, Táo mèo và các sản phẩm từ táo mèo,Hà thủ ô đỏ củ tươi, Thịt Trâu gác bếp, Phấn hoa mật ong, Hoa tam thất, Bột nghệ vàng, Bột nghệ đen, Chè Dây Sapa, Chè Tuyết Sapa, Xạ Đen - lá xạ đen, Hoa trà thơm bát tiên, Ba kích tím, Diệp hạ châu đắng, Kim tiền thảo, Cà gai leo, Lá sen khô, Bồ công anh, Dứa dại, Chè vằng, Thuốc tắm dao đỏ, Cây mật nhân, Bạch hoa xà thiệt thảo, Bán chi liên, Lá kim ngân, Lá dâm dương hoắc...
, Rao vặt khác 14 Tháng 3, 2012 - 22:12
Đồng nai nhung hươu nhân sâm cao trăn khỉ mật gấu bài thuốc quý hiếm ...,
MBRV - .
Từ lâu, y học cổ truyền đã biết tác dụng của nhung hươu nai và ứng dụng vào trị bệnh, tuy nhiên kết quả cũng có giới hạn. Hiện nay, y học vẫn tiếp tục nghiên cứu dược tính của nhung hươu nhằm phát hiện thêm những tác dụng chữa bệnh mới.
Nhung hươu nai là sừng của hươu đực hay nai đực. Hàng năm, vào cuối mùa hạ, sừng hươu, nai rụng đi, mùa xuân năm sau mọc lại sừng mới. Sừng mới mọc rất mềm, mặt ngoài phủ đầy lông, sờ vào êm như nhung nên gọi là nhung hươu nai, bên trong chứa nhiều mạch máu. Nhung có thể chưa phân nhánh hoặc có nhánh, còn gọi là nhung yên ngựa (nhung mới bắt đầu phân nhánh, còn ngắn, bên dài bên ngắn).
Huyết nhung và nhung yên ngựa là quí nhất. Nhung cắt xong cần chế biến ngay, để lâu sẽ thối rữa. Người ta đã phân tích được thành phần hóa học của nhung hươu nai, gồm canxi cacbonat, canxi phosphas, chất keo, protid, kích tố (testosteron, pentocrin...), acid amin (hơn 17 loại).
Theo Tây y, nhung hươu giúp tăng sức mạnh cơ bắp, sảng khoái tinh thần, vết thương mau lành, ăn ngủ tốt, lợi niệu và tăng nhu động dạ dày - ruột, chuyển hóa tốt protid và glucid... Liều mạnh gây hạ huyết áp, làm tim co bóp mạnh, đập nhanh, giật cơ, co giật hay đông huyết.
Theo y học cổ truyền Việt Nam, nhung có tác dụng sinh tinh, bổ tủy, ích huyết; chữa các chứng hư tổn cơ thể, di tinh, liệt dương, vô sinh, bệnh lậu, giúp khỏe gân xương, tăng tuổi thọ... Từ lâu đời, các thầy thuốc Đông y Trung Quốc và Nhật đã dùng nhung như vị thuốc bổ, giúp cơ thể lâu già, chống co giật, chữa ung bướu, thấp khớp.
Nhung hươu nai tuy bổ nhưng không phải ai cũng dùng được. Những người không được dùng là: người gầy, trong mình nóng, thiếu máu hay mất máu nhưng nhiệt độ cơ thể cao hơn bình thường, viêm phế quản, khạc đờm vàng, sốt, bệnh truyền nhiễm.
Các bài thuốc có nhung hươu:
Chữa liệt dương, xuất tinh sớm, tiểu lắt nhắt, thai khó đậu, tứ chi lạnh, thắt lưng đau, gối mỏi: Nhung hươu 40 g (thái mỏng, giã nát), hoài sơn 40 g (giã nát). Cho vào túi vải, ngâm với 1 lít rượu trong 7 ngày, uống 10-20 ml/ngày. Khi hết rượu lấy bã tán mịn, vò viên uống.
Chữa tinh huyết khô kiệt, tai điếc, miệng khát, đau lưng, tiểu như nước vo gạo: Nhung hươu 40 g, đương qui 40 g, cả 2 sao khô, tán bột. Lấy thịt ô mai nấu thành cao trộn với bột trên, vo viên bằng hạt bắp, người lớn uống 50 viên/ngày, chia thành 2-3 lần, uống với nước cơm còn ấm.
Chữa trẻ em chậm lớn, còi xương, suy dinh dưỡng: Bột nhung 0,5 g x 2 lần/ngày.
Giúp kéo dài tuổi thọ (dùng thường xuyên và đúng chỉ định): Bột nhung 0,3-1 g x 2-3 lần/ngày.
Để nhận biết nhung thật, sơ bộ có thể xem chỗ mặt cắt. Mặt cắt nhung thật sạch, trắng, có lỗ nhỏ như tổ ong, rìa ngoài không có chất xương, mùi tanh, vị mặn.
T

cây quý của rừng



Rừng là môi trường sống của bao sinh vật, giữ nước đầu nguồn chống lụt, giữ carbon, lá phổi tạo nguồn oxygen, nguồn nguyên liệu đa dạng sinh học phong phú cung cấp những thực vật có giá trị trong y học và bao dịch vụ có ích khác cho con người. Không những thế rừng còn chứa đựng nhiều bất ngờ khác cho ta những dữ kiện thông tin quý báu. Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà là một thí dụ tiêu biểu.
Đầu năm 2009, nhà khoa học người Mỹ Brendan Buckley ở Phòng thí nghiệm Vòng cây (Tree ring Laboratory) của cơ quan nổi tiếng Lamont-Doherty Earth Observatory đã cùng một đồng nghiệp Việt Nam tìm được trong rừng quốc gia Bidoup- Núi Bà gần Đà Lạt ở tỉnh Lâm Đồng nhiều cây thông đã sống cách đây gần ngàn năm. Các cây thông này thuộc một loài cây thông hiếm có nguy cơ tuyệt chủng (ghi trong Sách Đỏ) gọi là Fokienia hodginsii (cây Pơ Mu). Từ các mẫu lấy ở thân cây Pơ Mu, ông Buckley đã tái tạo lại thời tiết gió mùa ở lục địa Á châu trong quá khứ đến tận thế kỷ 14 và từ đó chứng minh là nền văn minh Khmer rực tỡ ở Angkor đã sụp đổ vì nạn hạn hán và môi trường thủy lợi. Đây là một khám phá quan trọng trong lịch sử khí hậu gió mùa và hiện tượng El Nino ở Đông Nam Á.
Cây Pơ Mu phân phối từ nam Trung Hoa (Triết Giang, Phúc Kiến, Vân Nam, Quế Châu) xuống bắc Việt Nam (các tỉnh Tuyên Quang, Lào Cai, Hà bắc, Hà Giang, Hà Tỉnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Gia Lai, Dak Lak, Lâm Đồng), nhưng ở Lâm Đồng trong vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà là nơi tìm thấy được các cây có độ tuổi lâu nhất.
Bài này có mục đích giới thiệu những khám phá khoa học quan trọng có liên quan đến lịch sử và địa lý tiến hóa mà sự đa dạng sinh học ở rừng nguyên sinh là yếu tố quyết định. Tư liệu lấy từ các báo cáo khoa học, các bài liên quan và được bổ sung bởi sử liệu Việt Nam.
Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà
Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà được thành lập năm 2004 để bảo vệ khu rừng nguyên sinh cổ nhất ở Lâm Đồng. Hệ sinh thái thuộc về vùng núi Nam Trường Sơn với 91% diện tich 64800 hectare là rừng. Ở đây có nhiều loài cây thông hiếm và đặc hửu chỉ có trong vùng, như thông lá dẹt (Pinus kempfii) không nơi nào có mà chỉ có ở Lâm Đồng và Khánh Hòa chủ yếu là vùng núi Bidoup. Trong 11 loài thông có nguy cơ tuyệt chủng thì vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà vẫn còn 10 loài.
Trong vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà, dọc theo các dốc của dãy núi Lang Bian, có rất nhiều các cây thông ba lá (khasia), một loài đặc biệt chỉ mọc ở độ cao từ 1000m đến 2000m trên mặt mặt biển.Trong rừng ở thung lũng cạnh Núi Bà còn có thông merkus, một loài chỉ có ở Á châu đất liền và là một trong những loài thông hiếm nhất trên thế giới. Thân cây có thể dài đến 4m đường kính và trổ lên thẳng cao đến 20m trước khi các cành tỏa ra từ thân cây. Một loài thông thật hoành tráng.
Trên những cành của các cây thông này, khách đến thăm có thể thấy hơn 200 loài chim, trong đó có nhiều loài chim quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng như Mi langbian đầu xám (crocias langbianis), khướu đầu đen (garrulax pectoralis) và Khướu đầu đen má xám (garrulax yersini) (10). Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà ở cao nguyên Lang Bian là một trong 221 trung tâm chim đặc hữu trên thế giới và một trong 4 trung tâm đa dạng sinh học của Việt Nam. Bốn trung tâm đa dạng sinh học ở Viêt Nam gồm có vùng núi Hoàng Liên Sơn ở bắc phần, núi Ngọc Lĩnh ở bắc Tây Nguyên, khu vực rừng mưa ở bắc trung phần và cao nguyên Lang Bian.
Để có thể hiểu được tầm vóc đa dạng sinh học ở Bidoup-Núi Bà, ta có thể liệt kê sau đây. Trong tổng thể 1468 loài thực vật, có 62 loài quý hiếm và 29 loài nằm trong Sách Đỏ (Red Book) của Việt nam và của Hiệp hội bảo tồn Thiên nhiên thế giới (IUCN) như loài tùng Sam hạt đỏ lá dài (Taxus wallichiana), Bách xanh (Calocedrus macrolepis), thông Pơ Mu (Fokienia hodginsii), Thông năm lá Đà Lạt (Pinus dalatensis), thông lá dẹp (Pinus krempfii). Quan trọng hơn là 91 loài thực vật này, tất cả đều là đặc hữu không có ở nơi nào khác trên thế giới mà chỉ có trong vùng tỉnh Lâm Đồng và lân cận với 28 loài có tên khoa học dựa trên tên vùng: Đà Lạt (dalatensis) có 9 loài, Lang Bian (langbianensis) có 14 loài và Bidoup (bidoupensis) có 5 loài.
Trong vườn có 52 loài thú động vật (chiếm 25% tổng số loài trong vùng Lâm Đồng) được coi là quý hiếm, trong đó 36 loài nằm trong Sách Đỏ 2000 của Việt Nam và 26 loài nằm trong Sách Đỏ 2000 của Hiệp hội bảo tồn Thiên nhiên thế giới (IUCN) như linh trưởng Cu li nhỏ (Nycticebus pygmaeus), Chà và chân đen (Pygathrix nigripes), Vượn đen má hung (hylogates gabriellae), Gấu chó (Ursus malayanus), Gấu ngựa (Ursus thibetanus),Báo lửa (Catopuma temminckii), voi (Elephas maximus), Chó sói đỏ (Cuon alpines), Bò tót (Bos gaurus), Trâu rừng (Bubalus arnee), Sơn dương (Naemorhedus sumatraensis), Hổ (Panthera tigris).
Vườn quốc gia Bidoup–Núi Bà cũng được đánh giá là “vương quốc” của các loài lan dại với hơn 250 loài. Có những loài lan đặc hữu chỉ có trong vùng cao nguyên Lang Bian (Lâm Viên) với các tên khoa học như lan hoàng thảo lang Bian (dendrobium langbianense), lan la dơn Lang Bian (oberonia langbianensis) và Lan vân đa bi đúp (vanda bidupensis).
Thông Pơ Mu (Fokienia hodginsii)
Cây thông cổ thụ Pơ Mu thường cao đến 30 mét và có đường kính từ 1.5 đến 2 mét. Ngoài vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà, cây thông Pơ Mua còn có ở vườn quốc gia Chu Yang Sin ở phía bắc nhưng hiện nay tại VQG Chu Yang Sin chúng chưa được khảo sát và thẩm định đầy đủ. Đây là loài cây được bảo vệ nghiêm ngặt trong Sách Đỏ, tuy vậy trong dịp viết bài này thì tôi thấy trên trang rao vặt ở Việt Nam trên mạng có quảng cáo bán tinh dâu cây Pơ Mu (xem http://www.raovatmienphi.com/tinh-dau-po-mu-nguyen-chat.html), chứng tỏ có vấn đề trong sự quản lý, bảo vệ sinh vật quí hiếm trong Sách Đỏ.
Cách đây vài năm, ông Buckley cùng với hai nhà khoa học đồng nghiệp người Nhật ở Đại học Ehime đã nghiên cứu các vòng gỗ trong một thân cây Fokienia hodginsii từ bắc Việt Nam. Như ta đã biết độ dầy của các vòng trên thân cây sẽ cho ta biết về tình trạng khí hậu trong quá khứ, mỗi chu kỳ một năm gồm màu nhạt là thời gian mọc nhanh lúc nhiều mưa và màu đậm hơn là giai doạn phát triển chậm vào mùa nắng. Loại cây Fokienia lý tưởng để nghiên cứu vì than chúng cho thấy mẫu hình phát triển mổi năm và chúng đáp ứng rõ rệt với thời tiết trong vùng chịu ảnh hưởng của thời tiết mưa vùng nhiệt đới ở Á châu (monsoon) bắt đầu vào khoảng tháng 3 đến tháng 5.
Dùng mẫu hình trên thân cây để biết được thời tiết khí hậu trong quá khứ đã được dùng ở một số các cây lớn sống nhiều năm trong rừng ôn đới, chúng cho thấy rõ sự phát triển các vòng trên thân cây tùy theo mùa. Ở rừng thường xanh miền nhiệt đới, các vòng trên thân cây ít khi thể hiện rõ nên hầu hết chúng không dùng được cho sự phân tích khí hậu quá khứ, trừ cây gổ quý tếch (teak) và gần đây cây thông Pơ Mu. Cây Pơ Mu được khám phá bởi các nhà khoa học Nhật cuối thập niên 1990 là có mẫu hình rõ nhận thấy được của các vòng phát triển dựa trên hai mùa mưa và nắng.
Teak được biết đến trong sự thẩm định khí hậu quá khứ vào năm 1931 khi nhà thực vật học người Hòa Lan H. Beriage xác định tuổi cây qua các vòng trên thân cây teak ở Java trở lại quá khứ đến tận năm 1514. Ở Indonesia nơi có nhiều teak trong rừng nhiệt đới, các cây cổ xưa này đã được dùng thành công để tái tạo lại nhiệt độ mặt nước biển ở Thái Bình Dương gần Indonesia, thời tiết và hiện tượng El Nino trong quá khứ (9). Tuy nhiên vì là cây có nguồn gốc du nhập từ Ấn Độ nên cây tìm được cổ nhất mà ta có thể xác định quá khứ chính xác là chỉ hơn 400 năm cách ngày nay.
Khi khoa học đã biết đến giá trị của cây Pơ Mu trong việc xác định khí hậu trong quá khứ thì hầu hết các cây Pơ Mu cổ xưa nhất đã bị chặt đốn khai thác làm gỗ và lấy tinh dầu từ Nam Trung quốc, bắc đến Trung Việt Nam trong quá khứ cho đến các năm gần đây. Vì thế hiện nay các cây Pơ Mu xưa cổ nhất là được tìm thấy ở vùng hẻo lãnh của vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà thuộc tỉnh Lâm Đồng. Chúng có giá trị vô cùng quí giá cho khoa học.
Năm 2007, ông Lê Cảnh Nam, chuyên viên của vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà, được ông Buckley tìm xem trong vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà có các cây Pơ Mu cổ xưa mà nhóm nghiên cứu của ông có thể dùng để nghiên cứu khí hậu quá khứ. Ông Nam đã hướng dẫn ông Buckley vào rừng và tìm thấy được các cây cổ thụ Pơ Mu để lấy mẫu từ các thân cây (2).
(Chuyên viên Lê Cảnh Nam đục lấy mẫu từ thân cây Pơ Mu trong vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà. Photos by Andy Nelson/The Christian Science Monitor) .
Nhóm nghiên cứu của ông Buckley trong 5 năm qua đã hợp tác với các nhà nghiên cứu từ nhiều nước như Nhật, Úc, Pháp, Cambodia để tái tạo lại thời tiết mưa gió mùa và liên kết chúng với sự thay đổi khí hậu để trả lời câu hỏi mà các nhà sử học và khảo cổ học đã đặt ra: phải chăng sự thay đổi khí hậu đã là một nguyên nhân chủ yếu đã làm nền văn minh Khmer ở Angkor chủ yếu dựa vào hồ chứa, kênh đào để phát triển trồng lúa bị sụp đổ vào đầu thế kỷ 15 ?.
Trong đầu thập niên 2000, các nhà sử học và khảo cổ học ở Đại học Sydney (R. Fletcher, D. Penny), Trường Viễn Đông Bác cổ (C. Pottier) hợp tác cùng Cơ quan bảo tồn di tích Angkor (APSARA) của Cambodia trong Chương trình Angkor rộng lớn (Greater Angkor Project, GAP). Nhóm GAP nghiên cứu khai triển thêm công trình nghiên cứu trước đây vào năm 1979 của nhà khảo cổ Pháp Bernard-Philippe Groslier của Trường Viễn đông Bác cổ về hệ thống thủy lợi, môi trường chung quanh quần thể Angkor (12). Qua các ảnh vệ tinh và khai quật điền dã, nhóm GAP nhận thấy sự qui mô lớn lao của hệ thống thủy lợi cung cấp nước cho các hồ Đông Baray, Tây Baray, hào quanh thành quách, các cánh đồng lúa ở bắc và nam Angkor từ sông Siamrep. Sông Siemrep bắt nguồn từ núi Phnom Kulen phía đông bắc Angkor chảy ra biển hồ Tonle Sap ở phía nam.
Ở Á châu, gió mùa mang đến mưa điều khiển nhịp sống của con người ở vùng này. Ngày nay hơn 40% dân số thế giới tùy thuộc vào nước do mưa đem lại để trồng thức ăn và có nước uống. Vì vậy nếu có sự thay đổi đột biến của gió mùa thì hệ quả gây ra những xáo trộn về kinh tế, xã hội sẽ vô cùng to lớn, nhất là đối với các xã hội trong lịch sử ở những thế kỷ trước chỉ dựa vào nông nghiệp.
Trong chuyến điền dã được ông Lê Cảnh Nam hướng dẫn vào vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà, ông Buckley hy vọng là dữ liệu từ các cây cổ thụ Pơ Mu sẽ trả lời thỏa đáng giả thuyết trên của các nhà khảo cổ. Hy vọng của ông Buckley đã được kiểm chứng vài tháng sau, khi các mẫu thân cây lấy từ ruột của cây đánh dấu số 12 (trong tổng số 36 cây) được phân tích ở phòng thí nghiệm Lamont-Doherty Earth Observatory ở New York. Phân tích cho thấy cây này được định tuổi trở về quá khứ cho đến năm 1029 tức 980 năm cách đây.
Sau 4 ngày làm việc cực nhọc trong vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà với tinh thần hợp tác cao độ, mục tiêu của họ đã được hoàn tất. Họ đã có được hơn 100 mẫu ruột thân cây từ một quần thể cây Pơ Mu.
Ông Buckley nói (2): “Tôi nhìn địa điểm này và nhìn lại toàn Đông Nam Á – đặc biệt là Việt Nam – tôi nhận ra rằng tôi có thể rất dễ dàng làm việc nghiên cứu tại đây cho đến khi tôi không thể làm việc được nữa. Có rất nhiều việc phải làm và thật là hết sức lý thú“.
Cộng với các kết quả nghiên cứu trước đây ở Thái Lan, nhóm nghiên cứu của Buckley đã xác định được rằng từ các vòng trên thân cây Pơ Mu đã có vài thời kỳ hạn hạn lớn trên vùng đất liền ở Đông Nam Á trong các năm đầu của thế kỷ 15.
Qua các mẫu (lấy bằng máy khoan tay nhỏ vặn đục vào thân cây) từ 36 thân cây Fokienia, nhóm nghiên cứu của ông Buckley đã tái tạo lại thời tiết chính xác nhất trong quá khứ hơn 700 năm cách ngày nay cho đến tận thế kỷ 13. Kết quả cho thấy có sự liên hệ (correlation) chặc chẻ giữa hạn hán trong vùng có cây Fokienia sống ở lưu vực sông Cửu Long và mẫu hình thời tiết El Nino.
Nghiên cứu của nhóm Buckley cho thấy có hai thời kỳ hạn hán kéo dài vào khoảng cuối thế kỷ 14 (1362-1392) và đầu thế kỷ 15 (1415-1440), thời điểm mà vương quốc giàu mạnh Khmer ở Angkor sụp đổ. Trong hai thời kỳ này thì giai đoạn hạn hán rất nặng kéo dài nhiều thập kỷ là xảy ra vào đầu thế kỷ 15 với năm nặng nhất là năm 1417.
Tra theo sử liệu Việt Nam thì trong Đại Việt Sử Ký toàn thư (ĐVSKTT) (13) có nói là năm 1392 có hạn hán ở Đại Việt. Lúc đó Đại Việt thời Hậu Trần chủ yếu là ở vùng đồng bằng bắc bộ đến vùng đất mà Champa vừa mất là Quảng Trị và Thừa Thiên (châu Ô và châu Rí). Trong các năm đầu thế kỷ 15, ĐVSKTT chỉ tập trung nói về cuộc chiến tranh với quân Minh và khởi nghĩ Lê Lợi nên không có chi tiết nào về tình hình kinh tế, xã hội.
Sau chiến tranh, sử liệu lại nói nhiều về tình hình xã hội kinh tế. Hạn hán nặng nề xảy ra trong các năm đầu 1430 đã được ghi trong ĐVSKTT. Năm 1434, vì hạn hán đã nhiều năm, nhà vua (Lê Thái Tông) đã phải cầu mưa: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua sai các quan rước Phật chùa Pháp Vân ở Cát Châu về Đông Kinh để cầu mưa.”, “Thả vài chục tên tù tội nhẹ vì hạn hán đã lâu.”, “Ngày 22, đặt đàn chay ở điện Cần Chính, vì hạn hán hại lúa, sét đánh cháy thuyền”.
Sự kiện hạn hán có ý nghĩa ra sao, ta hãy xem tiếp trong ĐVSKTT như sau:
.. Hành khiển Nguyễn Trãi soạn xong tờ tâu, bọn Nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và Học sĩ Lê Cảnh Xước muốn đổi lại mấy chữ: Nguyễn Trãi giận nói: "Bọn các ngươi là hạng bề tôi vơ vét, nạn hạn hán này là do các ngươi gây nên cả". Thúc Huệ tố các với Đại tư đồ Sát và Đô đốc Vấn. Sát và Vấn tức lắm, trách Trãi rằng: "Làm nên nỗi có thiên tai không phải là do lỗi của bọn ấy, lỗi ở vua và tể tướng thôi, sao ông trách nhau quá như thế?".
.. Bấy giờ, điều động thợ ở các cục tất tác làm chùa Báo Thiên. Công việc thổ mộc rất nặng nề, Sư Đãng phải làm lụng vất vả, nói vụng rằng:
"Thiên tử không có đức, để đến nỗi hạn hán. Đại thần ăn của đút, cử dùng kẻ vô công, có gì là thiện đâu mà phải làm chùa to thế". Bị người cáo giác. Đại tư đồ Lê Sát giận lắm. Quan thẩm hình Nguyễn Đình Lịch nói: "Nó dám nói càn đến việc nước, nên chém".
Năm 1437, trong ĐVSKTT: “Hạn hán, hạ lệnh cho các lộ, huyện trong nước làm lễ cầu mưa”, “Tháng 6, hạn hán, có sâu hại lúa. Hạ lệnh cho các lộ, trấn làm lễ cầu mưa”, “Mùa hạ, tháng 4, làm lễ cầu mưa ở cung Cảnh Linh”, “Tháng 6, hạn hán, có sâu hại lúa. Hạ lệnh cho các lộ, trấn làm lễ cầu mưa.”, “Ngày Canh Ngọ, kinh sư có mưa, các quan đều chúc mừng, vua sai người đi các lộ xem có mưa không. Ngày Tân Mùi, xuống chiếu rằng: Mấy năm nay hạn hán sâu bọ xảy ra liên tiếp, tai dịch có luôn, phải bớt hình phạt, giảm thuế khóa, để yên lòng dân.”.
Các nguồn khác để xác định khí hậu (nhiệt độ hay lượng nước mưa) trong quá khứ là san hô và thạch nhủ. Chúng được thành lập tích tụ qua nhiều ngàn năm trước đây ở biển và trong các động đá vôi. Dữ kiện phân tích từ các thạch nhủ ở động Vương Tường (Wangxiang) thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc (11) cho ta thấy chi tiết về lịch sử khí hậu gió mùa trãi dài đến cách đây 1800 năm đến nay. Những dữ kiện này phù hợp với dữ kiện từ cây Pơ Mu mà nhóm nghiên cứu của ông Buckley. Cụ thể chi tiết từ thạch nhủ cho thấy hạn hán xảy ra ở nam Trung Quốc trong các giai đoạn 860-930, 1340-1380, 1580-1640 trùng lúc với sự sụp đổ của triều đại nhà Đường, nhà Nguyên và nhà Minh ở Trung Quốc.
Đại Việt Sử ký cũng ghi là vào thế kỷ 16, đại hạn cũng xảy ra vào các năm 1585 đến 1589 và các năm 1595 đến 1599. Thí dụ như đoạn vào năm 1596: “..Bấy giờ đại hạn, thóc lúa vụ chiêm đều không thu được, đầm phá khô cạn, cây cỏ úa vàng, hoa không kết trái. Trộm cướp quần tụ trong dân gian, bọn lớn đến 7, 8 trăm đứa, bọn nhỏ cũng không dưới vài trăm, ngày đêm đốt phá nhà cửa, cướp đoạt của cải gia súc, thuỷ bộ không thông, đường sá bế tắc, dân đói nhiều, chết đến quá nửa.”
Vào giữa thế kỷ 18, cũng có một thời kỳ hạn hạn nặng kéo dài ít nhất 30 năm (1750-1780). Tất cả các vương quốc ở vùng Đông Nam Á đều sụp đổ. Điều này cho thấy sự thay đổi khí hậu đã ảnh hưởng nặng nề đến xã hội, kinh tế và chính trị của các quốc gia trong vùng.
Trong các khám phá gần đây về nguyên nhân các nền văn minh bị sụp đổ, nổi bật nhất là sự sụp đổ của vương quốc cổ đại Ai Cập (Old Kingdom), Đế quốc Akkadian vùng Mesopotamia cách đây 4200 năm (4200 BP) là do sự thay đổi khí hậu ở Bắc Phi và Trung Đông do sự thay đổi bất thường của dòng nước nóng Gulf Stream ở Đại Tây Dương gây ra hạn hán kéo dài nhiều năm. Các bia ký ở đền Luxor và tư liệu viết trên đá ở đồi gần Aswan, các dấu vết thay đổi làng mạc cổ xưa thấy được qua vệ tinh cùng các dữ kiến phân tích các cột đất lấy từ đáy biển gần Oman (15).
Tương tự như sự khám phá trên, sự khám phá của nhóm GAP và nhóm Buckley về nguyên nhân của sự sụp đổ nền văn minh Angkor là một khám phá quan trọng trong ngành khảo cổ và sử học ở Đông Nam Á. Cây thông Pơ Mu ở Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà đã là một yếu tố quyết định trong sự khám phá này.
Thông lá dẹt (Pinus krempfii)
Các loài thông (của chi Pinus), thuộc ngành (division) thực vật có hình chóp nón (conifer), ở Bắc bán cầu thường không có ở các rừng mưa vùng nhiệt đới, vì lá chúng không quang hợp hiệu quả đủ để cạnh tranh nổi với các loài thực vật nhiệt đới khác. Trái lại các loài thông quả có cuống (podocarp), cũng thuộc ngành có hình chóp nón ở Nam bán cầu thường được thấy trong các rừng mưa ẩm ở New Zealand, Papua New Guinea, Chile, Tasmania, New Caledonia và các đảo ở Thái Bình Dương. Tất cả các loài thông quả có cuống bắt nguồn từ siêu lục địa cổ Gondwaland ở phía nam trước khi siêu lục địa này tách ra thành các lục đia Phi Châu, Nam Mỹ, Australia, Ấn Độ và lục địa Nam Cực (Antarctica) cách đây hơn 100 triệu năm.
Nhưng thông lá dẹt (Pinus krempfii) là một ngoại lệ quan trọng. Được phát hiện bởi nhà thực vật người Pháp H. Lecomte vào năm 1921. Thông lá dẹt là loài thông duy nhất ở Bắc bán cầu có lá dẹt, thay vì lá nhọn (needle-leaf) như mọi loài thông khác và duy nhất thích ứng với rừng nhiệt đới sống cạnh tranh với các loài cây hạt kín (angiosperm) khác. Trong quá trình tiến hóa, thông lá dẹt đã đi xuống phía nam xa nhất tạo được chổ đứng trong rừng mưa nóng ẩm ở Lâm Đồng, nhưng dừng tại đây và không tiến được hơn nữa để hội nhập với các loài thông Nam bán cầu. Có thể sự hiện diện của P. Krempfii ở Lâm Đồng là hệ quả của một sự thay đổi khí hậu trong lịch sử trái đất.
Gần đây vào năm 2008, hai nhà thực vật người Australia, T. Brodribb và T. Field, ở Đại học Tasmania đã nghiên cứu tính chất sinh lý quang hợp và chuyển nước của lá thông lá dẹt. Kết quả cho thấy về phương diện sinh lý loài thông này khác với mẫu hình phổ quát cần nhiều ánh nắng cho sinh lý quang hợp của các loài thông lá nhọn (3). Theo ông Brodribb thì “Sự nghiên cứu của chúng tôi về cấu trúc và chức năng của lá thông P. Krempfii cho thấy rất rõ là loài cây thông nhiệt đới phi thường này là một loài có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong địa lý sinh học (bio-geography) và tiến hóa của các loài sinh vật.
Chúng tôi thấy rằng về đặc tính quang hợp, dẫn nước và cấu trúc hình thể, loài này giống với loài thông quả có cuống (podocarp) ở Nam bán cầu hơn là loài thông (ở bắc bán cầu)” (4).
Đây là một kết quả thật là ngạc nhiên và hấp dẫn về một loài thông bắc bán cầu kỳ lạ có mặt ở Lâm Đồng. Ta hãy tưởng tượng là bất ngờ tìm thấy trong rừng sâu Tây Nguyên, ở các suối nước có những con thú vật tương tự như con “đuôi chồn mỏ vịt” (platypus) của lục địa Australia bơi sống trong đó. Sự khám phá về đặc tính và quá trình tiến hóa của loài thông lá dẹp cũng là một sự khám phá bất ngờ và thảng thốt như vậy trong thế giới thực vật.
Ngoài thông lá dẹt đặc hữu đặc biệt hết sức gây chú ý trong giới khoa học, còn có cây bách vàng (Xanthocyparis vietnamensis), cũng một loài đặc hữu quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng (Critically Endangered) chỉ vừa mới được khám phá vào năm 2001 trong vùng núi đá vôi Bát Đại Sơn, thuộc tỉnh Hà Giang giáp biên giới Trung Quốc. Và cuối cùng là loài bách Đài Loan (Taiwania cryptomerioides) hiếm trên thế giới mà trước đây chỉ được biết có ở Đài Loan, Vân Nam ở vùng biên giới Miến Điện-Trung Quốc, được khám phá ở tỉnh Lào Cai, Hoàng Liên Sơn năm 2001. Loài này hiện nay được xếp vào hạng có nguy cơ tuyệt chủng và nằm trong Sách Đỏ Việt Nam.
Cả ba loài thực vật quý hiếm ở vùng núi này đã được tổ chức Bảo tồn động thực vật quốc tế (Fauna & Flora International, FFI) coi là ba loài chính (flagship species) tượng trưng cho sự khuyến khích bảo tồn rừng và đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Trong các thập niên gần đây nhiều loài động vật và thực vật mới đã được khám phá ở Việt Nam dọc trong các rừng sâu hẻo lánh dọc theo dãy Trường Sơn, cho thấy vùng này có sự đa dạng sinh học rất cao và nhiều loài đặc hữu. Nhưng ngày nay nhiều nơi rừng và các loài động thực vật đang bị đe dọa ngay cả trong những vùng được coi là vườn quốc gia hay rừng bảo hộ. Cuộc sống của người dân tộc bản địa cũng bị thay đổi, văn hóa có nguy cơ biến mất nhất là vùng Tây Nguyên do sức ép dân số di dân từ các nơi khác đến khai thác lập nghiệp. Ngay cả họ cũng bị áp lực của thị trường săn các thú rừng, gỗ quý hiếm cho các lái buôn động vật hoang dã và lái buôn gỗ khi mà xưa kia theo truyền thống họ không bao giờ khai thác thiên nhiên quá mức.
Tôi mong rằng tất cả mọi chúng ta trong xã hội Việt Nam ý thức và bảo vệ môi trường sống của sự đa dạng sinh học chứa đựng trong rừng mà hiện nay đang bị đe dọa trầm trọng bởi con người đi đến khắp nơi để săn bắt, phá hủy ngay cả ở những vùng hẻo lánh nhất.

Bảo tồn 2 loài cây quý hiếm trong Sách Đỏ thế giới


Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu ở huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hoá, đang triển khai dự án bảo tồn và phát triển bền vững hai loài cây Sến mật có tên khoa học là Madhuca Pasquieri và Vàng tâm - tên khoa học là Manglietia fordiana.

Đây là hai loài cây bản địa quý hiếm, đặc trưng của Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu và có trong Sách Đỏ của Việt Nam và thế giới.

Theo dự án, Khu bảo tồn sẽ thực thi các dự án khảo sát, điều tra đánh giá hiện trạng, phân bố và đặc tính sinh thái, đặc tính sinh trưởng của hai loài cây này, đồng thời xác định các tác động vào quần thể Sến mật và Vàng tâm tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu; dự án khảo sát, điều tra, đánh giá các mối đe doạ và đề ra giải pháp bảo tồn, phát triển đối với hai loài Sến mật và Vàng tâm.

Khi nhân giống, các cán bộ của khu bảo tồn sẽ thực hiện chọn lựa cây mẹ và nhân giống bằng phương pháp gieo hạt tại vườn ươm. Qua đó góp phần duy trì tính đa dạng sinh học, bảo tồn và phát triển các loài cây bản địa, quý hiếm trong khu bảo tồn thiên nhiên này.

Dự án cũng tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng, tập huấn nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ, chính quyền địa phương, xây dựng băng, đĩa tư liệu về hai loài cây bản địa này. Các cán bộ trong ban dự án cũng in ấn, cấp phát hàng nghìn tờ rơi đến người dân để phục vụ công tác tuyên truyền.

Sến mật và Vàng tâm là hai loài cây có giá trị kinh tế cao (với 1m3 có giá trên 10 triệu đồng), dùng để làm nhà, cửa. Cũng chính vì vậy, hai loài cây này đang bị áp lực khai thác rất lớn. Hiện tại khu bảo tồn thiên nhiên Pu Hu còn lại rất ít hai giống cây Sến mật và Vàng tâm có đường kính 1-2m./.